Lịch sử Sân_khấu

Hy Lạp cổ điển và thời Hellenic

Tranh minh họa các diễn viên đóng vai người chủ (phải) và nô lệ của ông ta (trái) trong một vở kịch phlyax Hy Lạp cổ đại, khoảng năm 350-340 TCN

Thành bang Athens là nơi sân khấu phương Tây được khai sinh.[6] Nó là một phần của một văn hóa sân khấu và biểu diễn lớn hơn trong thời Hy Lạp cổ điển, bao gồm các lễ hội, phong tục tôn giáo, chính trị, luật pháp, điền kinh, thể dục dụng cụ, âm nhạc, thi ca, đám cưới, đám tang, và symposia.[7]

Việc tham gia vào nhiều lễ hội của thành bang và tham gia Thành phố Dionysia như một khán giả nói chung, hoặc thậm chí là một diễn viên trong các tác phẩm sân khấu nói riêng, là một phần quan trọng của các công dân.[8] Sự tham gia của các công dân cũng bao gồm việc đánh giá các kỹ năng diễn đạt của những người diễn thuyết bằng chứng là trong buổi biểu diễn trong phòng xử của tòa án hoặc nhà quốc hội, cả hai hình thức hùng biện này đều được coi là gần với sân khấu và ngày càng hấp thu vốn từ vựng kịch tính của sân khấu.[9] Người Hy Lạp cũng phát triển các khái niệm về những lời chỉ trích kịch tính và kiến trúc sân khấu.[10] Diễn viên hoặc là nghiệp dư, cùng lắm là bán chuyên nghiệp.[11] Các sân khấu của Hy Lạp cổ đại bao gồm ba loại kịch: bi kịch, hài kịch và kịch thần thoại.[12]

Nguồn gốc của nhà hát Hy Lạp cổ đại, theo Aristotle (384-322 TCN), nhà nghiên cứu đầu tiên về sân khấu, được tìm thấy trong những ngày lễ hội tôn vinh thần Dionysus. Các buổi biểu diễn đã được thực hiện trong các phòng bán nguyệt dựa lưng vào sườn đồi, với khả năng chứa 10,000-20,000 người. Sân khấu bao gồm một sàn nhảy (dàn nhạc), phòng thay đồ và khu vực xây dựng phối cảnh. Vì ngôn ngữ là phần quan trọng nhất, việc phát âm thanh tốt và truyền tải rõ ràng là tối quan trọng. Các diễn viên (luôn luôn là nam) đeo mặt nạ phù hợp với nhân vật mà họ đóng, và mỗi người có thể đóng nhiều vai.[13]

Bi kịch Athen - hình thức còn tồn tại lâu đời nhất của bi kịch, là một loại kịch múa. Thể loại kịch này tạo thành một phần quan trọng của văn hóa sân khấu của thành bang.[14] Sau khi xuất hiện một thời gian trong thế kỷ thứ 6 TCN, nó nở rộ trong thế kỷ thứ 5 TCN (và sau đó nó bắt đầu lan rộng khắp thế giới Hy Lạp), và tiếp tục được phổ biến cho đến đầu giai đoạn Hellenistic.[15]